Khái niệm nguồn của luật hành chính:
Nguồn của Luật Hành chính Việt Nam chỉ có 1 hình thức duy nhất đó là các văn bản quy phạm pháp luật (QPPL). Đó chính là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có các quy tắc xử sự chung, được nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng XHCN (Điều 1 Luật Ban hành văn bản Quy phạm pháp luật). Tuy nhiên không phải bất cứ văn bản quy phạm pháp luật nào có chứa đựng các quy phạm pháp luật hành chính – những quy phạm được ban hành ra để điều chỉnh quan hệ quản lý hành chính nhà nước mới được coi là nguồn của Luật hành chính.
Như vậy, nguồn của Luật Hành chính là các văn bản quy phạm pháp luật trong đó có chứa đựng các quy phạm pháp luật hành chính. Một văn bản được coi là nguồn của Luật Hành chính nếu văn bản đó thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu sau:
- Do chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo Luật định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật ban hành ra.
- Văn bản được ban hành theo đúng trình tự, thủ tục dưới hình thức do luật định. Nội dung văn bản đó có chứa đựng quy phạm pháp luật hành chính
Chúng được ban hành bởi nhiều cơ quan khác nhau, có chức năng và nhiệm vụ khác nhau, ở những cấp khác nhau. Tuy nhiên, những văn bản quy phạm pháp luật hành chính đểu xuất phát từ một nguồn - đó là luật hiến pháp.
Hình ảnh minh họa: Họp Quốc hội khóa XIV (Nguồn: Quốc hội)
Căn cứ vào chủ thể ban hành, nguồn của luật hành chính bao gồm:
Hiến pháp:
Hiến pháp là đạo luật có giá trị pháp lí cao nhất quy định những vấn đề cơ bản, quan trọng liên quan đến đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa- xã hội của quốc gia. Hiến pháp là nguồn của mọi ngành luật trong đó có Luật hành chính. Những quy phạm pháp luật hành chính trong Hiến pháp là những quy định mang tính chung, nguyên tắc làm cơ sở ban hành ra các quy phạm pháp luật hành chính khác.
Luật:
Là loại văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành để cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp. Có các văn bản chứa đựng quy phạm pháp luật hành chính như: Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Luật khiếu nại, tố cáo…
Nghị quyết của Quốc hội:
Là văn bản được ban hành để quyết định kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, chính sách dân tộc, tôn giáo, đối ngoại, quốc phòng an ninh, dự toán ngân sách và phân bổ ngân sách nhà nước, phê chuẩn điều ước quốc tế, quyết định chế độ làm việc của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Các Ủy ban của Quốc hội, đại biểu Quốc hội và quyết định các vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Quốc hội.
Pháp lệnh:
Là văn bản quy phạm pháp luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành. Quy định những vấn đề được Quốc hội giao, sau một thời gian thực hiện trình Quốc hội xem xét, quyết định ban hành thành Luật. Những pháp lệnh có chứa đựng quy phạm pháp luật hành chính là nguồn của Luật hành chính.
Nghị định của Chính phủ:
Nghị định của Chính phủ dùng để quy định chi tiết thi hành luật, Nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác thuộc thẩm quyền của Chính phủ thành lập, quy định những vấn đề hết sức cần thiết nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lí kinh tế, quản lý xã hội. Tất cả những Nghị định của Chính phủ ban hành với tư cách là văn bản quy phạm pháp luật hành chính nêu trên đều là nguồn của Luật hành chính.
Nghị định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:
Là văn bản được ban hành để giải thích Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh, giám sát việc thi hành Hiến pháp, văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, giám sát hoạt động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân, quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, tổng động viên hoặc động viên cục bộ, ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc từng địa phương hoặc quyết định những vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Những nghị quyết nào của Ủy ban Thường vụ Quốc hội chứa đựng quy phạm pháp luật hành chính là nguồn của Luật hành chính.
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp:
Là văn bản quy phạm pháp luật duy nhất mà cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương có quyền ban hành. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp đề cập đến các chính sách về kinh tế, văn hóa- xã hội, an ninh quốc phòng cũng như giải quyết những vấn đề cụ thể khác của địa phương thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân các cấp theo quy định của pháp luật. Những van bản này nếu chứa quy phạm pháp luật hành chính thì là nguồn của luật hành chính.
Văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước:
Cơ quan hành chính nhà nước là cơ quan có chức năng quản lý hành chính nhà nước theo quy định của pháp luật. Chính vì vậy, các văn bản là nguồn của Luật hành chính do cơ quan này chiếm một số lượng rất lớn:
– Quyết định của Thủ tướng Chính phủ: Được ban hành để quyết định các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, điều hành hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở, quy định chế độ làm việc với các thành viên Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Chính phủ.
– Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ có chứa đựng quy phạm pháp luật hành chính là nguồn của Luật hành chính.
– Quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan nganh Bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ.
– Văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ để hướng dẫn thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị quyết, Nghị định của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ có liên đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan đó.