UỶ BAN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 03UB/KHH |
Hà Nội, ngày 23 tháng 2 năm 1995 |
THÔNG TƯ
CỦA ỦY BAN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC SỐ 03 UB/KHH NGÀY 23 THÁNG 02 NĂM 1995 HƯỚNG DẪN VỀ KẾ HOẠCH HOÁ ĐẦU TƯ
Căn cứ Nghị định số 177- CP ngày 20 tháng 10 năm 1994 của Chính phủ về việc ban hành Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng;
Căn cứ Nghị định số 86-CP ngày 18 tháng 8 năm 1994 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của ủy ban Kế hoạch nhà nước,
Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước hướng dẫn về công tác kế hoạch hoá đầu tư như sau:
1. Kế hoạch hoá phải phản ánh các nguồn vốn đầu tư của các thành phần kinh tế trong kế hoạch đầu tư của Bộ, địa phương và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
+ Trước mắt mỗi kỳ kế hoạch, các Bộ, địa phương cần điều tra tổng hợp đánh giá tình hình thực hiện các nguồn vốn đầu tư của kỳ báo cáo. Các chủ đầu tư có nhiệm vụ báo cáo lên các cơ quan cấp trên về tình hình thực hiện vốn đầu tư thuộc các nguồn theo biểu mẫu quy định. Các doanh nghiệp Nhà nước gửi báo cáo về các tổng công ty, các Bộ (doanh nghiệp trực thuộc Trung ương) hoặc các Sở (doanh nghiệp trực thuộc địa phương) quản lý chuyên ngành đồng gửi cơ quan tài chính và ngân hàng liên quan đến từng nguồn vốn. Vốn đầu tư của dân và tư nhân, ngoài tài liệu báo cáo của cơ quan cấp giấy phép xây dựng có thể tổ chức điều tra điển hình để đánh giá. Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài được theo dõi qua giấy phép đã được cấp và báo cáo thống kê tình hình thực hiện dự án.
+ Trên cơ sở kết quả phân tích đánh giá của kỳ báo cáo các Bộ hoặc Sở quản lý ngành dự báo yêu cầu đầu tư từ các nguồn trong kỳ kế hoạch theo ngành, theo địa phương gửi đến Uỷ ban Kế hoạch địa phương và Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước để tổng hợp chung.
Kế hoạch hàng năm, 5 năm của Bộ, địa phương, tổng công ty... phải thể hiện đầy đủ các nhu cầu, các mặt cân đối trong phạm vi Bộ, địa phương, tổng công ty... phụ trách theo từng nguồn vốn đầu tư. Phần vốn đầu tư thuộc ngân sách Nhà nước cấp, vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch của Nhà nước và vốn ODA cần ghi cụ thể danh mục và mức vốn sử dụng cho từng dự án. Các nguốn vốn khác nếu chưa đủ điều kiện theo dõi cụ thể thì có thể báo cáo tổng mức vốn đầu tư theo từng ngành.
2. Thực hiện kế hoạch đầu tư theo dự án được duyệt. Một dự án đầu tư có thể là một dự án độc lập hay nhiều dự án có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong quyết định đầu tư đã quy định tổng mức đầu tư bao gồm cả trượt giá, thời hạn xây dựng (trường hợp thời gian xây dựng nhiều năm không xác định được trượt giá phải ghi rõ trong quyết định). Khi dự án khởi công phải bố trí vốn theo tiến độ và tuân thủ thời hạn xây dựng đã ghi trong quyết định.
Để đảm bảo tiến độ xây dựng và khả năng cân đối vốn, công trình khởi công trong kỳ kế hoạch được quy định như sau:
Đối với vốn đầu tư thuộc ngân sách Nhà nước và vốn tín dụng theo kế hoạch Nhà nước: công trình thuộc nhóm A và B do Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ quyết định đồng thời với chỉ tiêu tổng mức đầu tư của các Bộ và địa phương. Danh mục dự án khởi công mới thuộc nhóm C do các Bộ và địa phương quyết định đầu tư bố trí kế hoạch nhưng phải được Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước thoả thuận.
3. Vốn sự nghiệp có tính chất
Hiện nay vốn sự nghiệp có tính chất xây dựng được sử dụng chủ yếu vào hai loại mục tiêu sau đây:
- Đầu tư cho một số chương trình của Nhà nước thực hiện trong một số năm (như Chương trình 327 phủ xanh đất trống đồi núi trọc, giải quyết việc làm)...
- Chi cho mục đích sửa chữa lớn và nhỏ các cơ sở vật chất không sản xuất kinh doanh.
Đối với những dự án mới thuộc loại thứ nhất: Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước thống nhất với Bộ Tài chính bố trí kế hoạch và thông báo về các tỉnh, thành phố và các Bộ thực hiện. Đối với những dự án chuyển tiếp thuộc loại thứ nhất và tất cả các hạn mục thuộc loại thứ 2, sau khi nhận được chỉ tiêu chi ngân sách Nhà nước, các Bộ và địa phương bố trí vào kế hoạch đầu tư của mình và đăng ký với Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Tài chính trong quý I năm kế hoạch, để kiểm tra và cấp phát thanh toán.
4. Điều kiện ghi kế hoạch đầu tư: Thực hiện theo mục 2 và 3 Điều 9 của Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng, nay hướng dẫn cụ thể thêm.
4.1. Kế hoạch thiết kế, quy hoạch:
Vốn đầu tư cho kế hoạch thiết kế, quy hoạch bao gồm vốn cho công tác điều tra, khảo sát lập quy hoạch phát triển ngành; quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội vùng lãnh thổ; quy hoạch bố trí không gian đô thị, nông thôn và vùng phụ cận (ngoài hàng rào của khu công nghiệp). Kế hoạch này phải phù hợp với mục tiêu chiến lược hoặc quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước, từng ngành, vùng, lãnh thổ được Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng hoặc Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố phê duyệt theo chế độ phân cấp hiện hành.
- Trước năm kế hoạch, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước trình Thủ tướng Chính phủ những dự án quy hoạch tổng thể KTXH và dự án quy hoạch khu công nghiệp tập trung mới cần thực hiện trong kỳ kế hoạch, kiến nghị cơ quan chủ trì để làm cơ sở ghi kế hoạch và giao kế hoạch;
- Các dự án quy hoạch mới đưa vào kế hoạch là các dự án có chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ hoặc các văn bản yêu cầu công tác quy hoạch của các cơ quan chủ quản (cấp bộ, tổng cục, UBND tỉnh, thành phố).
- Dự án ghi vào kế hoạch cần phải có nhiệm vụ và đề cương được duyệt trên cơ sở định mức kinh tế - kỹ thuật, tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Nếu là dự án đang tiếp tục thực hiện phải có báo cáo khối lượng thực hiện đến 31 tháng 12 của năm trước ghi kế hoạch.
- Những dự án có tổng mức chi phí thiết kế quy hoạch từ 1 tỷ đồng trở lên và các quy hoạch liên quan đến liên vùng, liên quan đến sử dụng nguồn vốn ODA và các vốn viện trợ của các tổ chức quốc tế phải được các cơ quan Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng tham gia xét duyệt và thẩm định.
- Các cơ quan chủ quản không có lực lượng thực hiện công tác thiết kế, quy hoạch phải có văn bản thoả thuận hoặc uỷ quyền cho các Bộ chuyên ngành và phải ký hợp đồng với đơn vị thiết kế, quy hoạch có tư cách pháp nhân.
4.2. Kế hoạch chuẩn bị đầu tư:
Vốn cho chuẩn bị đầu tư là vốn để thực hiện các công việc: lập dự án (bao gồm cả quy hoạch mặt bằng khu công nghiệp, khu chế xuất, kể cả điều tra khảo sát theo quy phạm phù hợp với giai đoạn này, nếu có) thẩm định dự án và quyết định đầu tư. Nguồn vốn để chuẩn bị đầu tư thực hiện theo điểm 2 Điều 20 của Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng.
- Dự án phải có văn bản phê duyệt của cơ quan chủ quản hoặc chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ.
- Phải có tổng dự toán được cấp có thẩm quyền xét duyệt trên cơ sở định mức kinh tế - kỹ thuật của quy mô công trình dự kiến. Nếu là công trình có quy mô thuộc nhóm A phải được Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng tham gia xét duyệt và thẩm định.
- Đối với dự án đang tiếp tục chuẩn bị đầu tư phải có báo cáo thực hiện khối lượng đến hết 31/12 của trước năm ghi kế hoạch.
4.3. Kế hoạch chuẩn bị thực hiện dự án:
Vốn đầu tư cho chuẩn bị thực hiện dự án là vốn đầu tư để thực hiện các công việc: khảo sát thiết kế kỹ thuật, lập tổng dự toán, đền bù giải phóng mặt bằng, lập hồ sơ mời thầu. Đối với một số công trình đặc biệt quan trọng, thời gian xây dựng dài nếu được Thủ tướng Chính phủ cho phép xây dựng khu phụ trợ và nhà tạm của công nhân xây dựng thì chi phí này cũng được ghi trong kế hoạch chuẩn bị thực hiện dự án.
Chỉ được ghi vào kế hoạch chuẩn bị thực hiện cho những dự án đã có quyết định đầu tư phù hợp với quy định của Chính phủ.
4.4. Kế hoạch thực hiện dự án:
Vốn cho thực hiện dự án là vốn để thực hiện xây dựng và lắp đặt, mua sắm thiết bị, đào tạo, chi phí nghiệm thu bàn giao, chi phí chạy thử có tải theo quy phạm v.v... có liên quan đến việc đưa dự án vào khai thác, sử dụng.
- Dự án đầu tư lớn có nhiều công trình, thì công trình nào khởi công trong kỳ kế hoạch phải có thiết kế và dự toán được duyệt.
- Dự án đầu tư là một công trình lớn, có phân đoạn xây dựng thì hạng mục ghi vào kế hoạch khởi công phải có thiết kế và dự toán được duyệt.
- Một dự án không được phép vừa ghi kế hoạch chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị thực hiện và thực hiện dự án. Riêng đối với những dự án vừa và nhỏ ( thuộc nhóm C), nếu giai đoạn chuẩn bị thực hiện có thể hoàn thành sớm thì bố trí một khoản vốn dự phòng cho giai đoạn thực hiện dự án. Khi giai đoạn chuẩn bị được đánh giá hoàn thành sẽ đăng ký kế hoạch bổ sung.
5. Trình tự xây dựng và tổng hợp kế hoạch
5.1. Giai đoạn hướng dẫn, xây dựng kế hoạch
Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xác định và tổng hợp nguồn thông tin, thông báo cho các Bộ, địa phương vào tháng 6 hàng năm để chuẩn bị cho việc xây dựng kế hoạch năm sau:
- Dự báo khả năng nguồn vốn đầu tư bằng nguồn ngân sách tập trung và các nguồn khác của kỳ kế hoạch.
- Hướng đầu tư tập trung vào các chương trình dự án, vùng trọng điểm, các lĩnh vực ưu tiên.
- Thông tin về những chương trình, dự án cần đẩy mạnh chuẩn bị các điều kiện, thủ tục đầu tư xây dựng.
- Những cơ chế, chính sách dự kiến sẽ được áp dụng trong kỳ kế hoạch.
5.2. Giai đoạn các Bộ, địa phương xây dựng và báo cáo kế hoạch
- Căn cứ tiến độ thực hiện dự án và các mục ưu tiên đã hướng dẫn các Bộ, địa phương phối hợp với các cơ quan liên quan xác định cụ thể danh mục và vốn đầu tư các dự án, sắp xếp theo thứ tự ưu tiên.
- Tính toán, xác định các nguồn vốn đầu tư, trong đó làm rõ vốn đối ứng cho các dự án có vốn ODA, báo cáo kế hoạch đầu tư cùng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Bộ, địa phương lên Thủ tướng Chính phủ, đồng gửi Uỷ ban Ké hoạch Nhà nước, Bộ Tài chính để tổng hợp chung vào tháng 8 hàng năm.
- Kiến nghị các cơ chế chính sách cần thiết bảo đảm cho việc thực hiện kế hoạch đầu tư.
5.3. Giai đoạn tổng hợp, cân đối và báo cáo kế hoạch đầu tư xây dựng của cả nước.
Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước nghiên cứu đề xuất các mục tiêu chiến lược, các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng, ngành và lãnh thổ, tổng mức và cơ cấu vốn đầu tư của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tổng mức vốn đầu tư và danh mục chương trình dự án đầu tư ưu tiên thuộc ngân sách Nhà nước, đối tượng đầu tư bằng vốn tín dụng theo kế hoạch Nhà nước, vốn đối ứng cho các dự án tiếp nhận vốn ODA, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào tháng 9.
Căn cứ vào các chương trình, dự án đầu tư của các Bộ và địa phương, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước dự kiến phân bổ vốn đầu tư tập trung và vốn tín dụng theo kế hoạch Nhà nước cho các Bộ, địa phương trình Chính phủ vào tháng 11.
5.4. Giao kế hoạch đầu tư.
Thủ tướng Chính phủ giao cho các Bộ, địa phương các chỉ tiêu:
- Tổng mức vốn đầu tư tập trung của ngân sách Nhà nước có chia ra vốn trong nước, vốn ngoài nước và phân cho các kế hoạch:
+ Vốn cho công tác thiết kế, quy hoạch
+ Vốn chuẩn bị đầu tư
+ Vốn chuẩn bị thực hiện dự án
+ Vốn thực hiện dự án
Trong vốn thực hiện dự án được phân bổ theo: cơ cấu đầu tư, danh mục và mức vốn đầu tư, vốn đối ứng cho các dự án sử dụng vốn ODA, danh mục và mức vốn dự án thuộc nhóm A, B.
- Tổng mức vốn đầu tư và danh mục dự án sử dụng nguồn vốn tín dụng theo kế hoạch Nhà nước (hoặc Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hạch Nhà nước thông báo, hướng dẫn nếu được Thủ tướng Chính phủ uỷ quyền).
Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước được Thủ tướng Chính phủ uỷ quyền giao chỉ tiêu hướng dẫn:
- Năng lực mới huy động trong một số ngành, lĩnh vực quan trọng.
- Danh mục và vốn thiết kế quy hoạch các dự án quan trọng
- Danh mục và vốn chuẩn bị thực hiện các dự án quan trọng K
- Vốn KHCB để tái đầu tư của các Bộ (theo ngành) và của các tỉnh, thành phố.
- Danh mục và vốn tín dụng theo kế hoạch Nhà nước các dự án quan trọng.
Căn cứ tổng mức, cơ cấu vốn thực hiện dự án do Thủ tướng Chính phủ giao chỉ tiêu, Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước hướng dẫn, các Bộ, địa phương chủ động bố trí cụ thể số vốn còn lại cho từng dự án và đăng ký lại với Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước trong tháng 1 hàng năm.
Trên cơ sở bảo đảm các mục tiêu đã hướng dẫn và thủ tục xây dựng, Uỷ ban Kế hạch Nhà nước ra văn bản thoả thuận danh mục dự án khởi công mới và các dự án khác để làm cơ sở cấp phát vốn trong tháng 2, 3 hàng năm. Cơ quan tài chính chỉ cấp phát vốn cho những dự án đã được Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước thoả thuận.
Vốn vay đầu tư từ nguồn vốn chương trình, dự án cụ thể thực hiện theo hướng dẫn của Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và theo hợp đồng vay vốn đã ký giữa chủ đầu tư với cơ quan cho vay vốn.
5.5. Kiểm tra, theo dõi thực hiện kế hoạch đầu tư
- Các chủ đầu tư thực hiện đầy đủ chế độ báo cáo thống kê về "Thực hiện vốn đầu tư xây dựng" do Tổng cục Thống kê ban hành.
- Các Bộ, ngành, địa phương định kỳ 3 tháng, 6 tháng và hàng năm lập báo cáo tổng hợp và chi tiết về tình hình thực hiện các dự án đầu tư gửi Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Tài chính, Văn phòng Chính phủ và Tổng cục Thống kê.
- Trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án đầu tư, đại diện Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Tài chính và cơ quan liên quan tổ chức kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất về tình hình thực hiện kế hoạch các chương trình, dự án đầu tư.
|
Đỗ Quốc Sam (Đã ký) |